Dù nhiều ngành xuất khẩu chủ lực gặp khó khăn, Việt Nam vẫn đạt được những kết quả tích cực ở một số lĩnh vực quan trọng. Xuất khẩu rau quả tăng ấn tượng với 2,24 tỷ USD, xe và linh kiện tăng 2,17 tỷ USD, trong khi gạo và điều cũng ghi nhận mức tăng trưởng lần lượt là 1,22 tỷ USD và 558 triệu USD. Những con số này phản ánh sự chuyển đổi và đa dạng hóa trong các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, giúp giảm thiểu rủi ro từ sự phụ thuộc vào một số mặt hàng chủ lực.

Các quốc gia trên toàn cầu bị khuấy động bởi các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế. Thật thú vị khi thấy các quốc gia tăng hạn và rớt khỏi top các quốc gia có nền kinh tế đầu thế giới. Sau đây, hãy cùng Toplist điểm qua các quốc gia có nền kinh tế lớn nhất vào năm 2019.

GDP danh nghĩa: 21,3 nghìn tỷ USD

Kể từ năm 1871, Mỹ đã duy trì vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Mỹ thường được gọi là một siêu cường tài chính, và điều này là do nền kinh tế tốt nhất chiếm gần một phần ba vốn toàn cầu được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng, công nghệ hiện đại và sự giàu có tài nguyên thiên nhiên. Trong khi ngành công nghiệp Hoa Kỳ hướng đến dịch vụ, thêm gần 80% GDP, thì sản xuất chỉ thêm khoảng 15% sản lượng.

Kể từ năm 1871, Mỹ đã duy trì vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới vàMỹ cũng có nền kinh tế công nghệ mạnh nhất thế giới

Mỹ cũng có nền kinh tế công nghệ mạnh nhất thế giới với các lĩnh vực đa dạng như dầu mỏ, sắt, ô tô, hàng không vũ trụ, hóa chất, điện tử, chế biến thực phẩm và hàng tiêu dùng. Các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ cũng thực hiện một phần đáng kể ở cấp độ toàn cầu, với hơn một phần năm của Fortune Global 500 công ty đến từ GDP của Hoa Kỳ tăng 1,7% vào năm 2020.

GDP danh nghĩa: 14,2 nghìn tỷ đô la

Trong vài thập kỷ trước, nền kinh tế Trung Quốc đã chứng kiến sự tăng trưởng theo cấp số nhân, phá vỡ những trở ngại của nền kinh tế có kế hoạch tập trung để trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu của thế giới. Đối với năng lực sản xuất và xuất khẩu khổng lồ, Trung Quốc là nhà máy sản xuất trên thế giới.Trong những năm qua, vai trò của dịch vụ đã dần tăng lên và sản xuất đã giảm tương đối khi đóng góp vào GDP bình quân đầu người của Trung Quốc.

Kinh tế Trung Quốc đã chứng kiến ​​sự tăng trưởng theo cấp số nhân.Tuy nhiên, tốc độ phát triển đã chậm lại trong những năm gần đây.

Tốc độ phát triển đã chậm lại trong những năm gần đây, dù vậy Trung Quốc vẫn mạnh so với các nước khác. Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất với 27,3 nghìn tỷ GDP (PPP) trong năm 2019. GDP của Trung Quốc (PPP) sẽ lên tới 37,06 nghìn tỷ đô la vào năm 2023. Do dân số đông, GDP/người của Trung Quốc xuống còn 10.153 USD. Trung Quốc vẫn là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới.

Xét về dự báo GDP danh nghĩa, nền kinh tế Nhật Bản đứng thứ ba.Nền kinh tế Nhật Bản đã không còn ngoạn mục về mặt phát triển.

GDP danh nghĩa: 5,18 nghìn tỷ đô la

Về GDP danh nghĩa, nền kinh tế Nhật Bản đứng thứ ba ở mức 5,2 nghìn tỷ USD vào năm 2019. Trước những năm 1990, Nhật Bản ngày nay tương đương với Trung Quốc, bùng nổ vào những năm 1960, 70 và 80. Tuy nhiên, kể từ đó nền kinh tế Nhật Bản đã không còn ngoạn mục về mặt phát triển.

GDP danh nghĩa: 4 nghìn tỷ đô la

GDP (PPP): 4,356 nghìn tỷ đô la

Đức không chỉ lớn nhất mà còn là nền kinh tế mạnh nhất ở châu Âu. Trên phạm vi toàn thế giới, với GDP 4 nghìn tỷ đô la, đây là nền kinh tế GDP danh nghĩa lớn thứ tư. Sản lượng ngang giá sức mua trong GDP là 4,35 nghìn tỷ đô la, trong khi GDP bình quân đầu người là 48.264 đô la (thứ 16).

Đức chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa vốn, máy móc ô tô và các loại thiết bị. Đây là một trong những nhà cung cấp sắt, thép, than, hóa chất, máy móc, ô tô và máy công cụ lớn nhất thế giới. Đức đã giới thiệu công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 – kế hoạch chiến lược để phát triển quốc gia trở thành thị trường hàng đầu và nhà cung cấp các giải pháp sản xuất tiên tiến - để duy trì sức mạnh sản xuất trong tình hình hiện nay trên toàn thế giới.

Đức không chỉ lớn nhất mà còn là nền kinh tế mạnh nhất ở châu Âu

GDP danh nghĩa: 2.972 nghìn tỷ đô la

GDP (PPP): 1,1468 nghìn tỷ đô la

Ấn Độ sẽ đứng vị trí thứ ba nền kinh tế lớn nhất thế giới năm 2020 khi so sánh GDP là 11,46 nghìn tỷ đô la tương đương sức mua. Dân số lớn của Ấn Độ kéo phần trăm GDP danh nghĩa xuống còn 2,199 đô la khi họ tính toán các quốc gia theo GDP danh nghĩa trên đầu người. Hy vọng Ấn Độ sẽ vượt qua cả Vương quốc Anh vào năm 2020 để trở thành nền kinh tế lớn thứ năm thế giới với GDP danh nghĩa là 2,9 nghìn tỷ USD. Lĩnh vực dịch vụ Ấn Độ là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới, tăng thêm hơn 30% cho nền kinh tế. Sản xuất của Ấn Độ tiếp tục một trong những ngành công nghiệp chính (hiện đang chậm lại) và được khuyến khích thường xuyên vì động lực thông qua các sáng kiến của chính phủ như là Make in India.

Sản xuất của Ấn Độ tiếp tục một trong những ngành công nghiệp chính

Mặc dù đầu vào ngành nông nghiệp đã giảm xuống còn khoảng 47%, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước phương Tây và các thị trường mới nổi khác. Do đồng rupee giảm, số dư tài khoản vãng lai cao và tăng trưởng công nghiệp yếu, Ấn Độ bắt đầu chứng kiến sự suy giảm phát triển. Gần đây, tăng trưởng tài chính đã vượt Trung Quốc, khiến Ấn Độ trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

GDP danh nghĩa: 2,829 nghìn tỷ đô la

GDP (PPP): 3,128 nghìn tỷ đô la

Anh với GDP danh nghĩa là 2,829 nghìn tỷ đô la, giữ vị trí thứ sáu về GDP theo quốc gia trong giai đoạn 2019-2020. Về GDP theo sức mua tương đương, Vương quốc Anh giảm xuống vị trí thứ chín với 3,128 nghìn tỷ đô la. Có thể thứ hạng sẽ tăng lên vị trí thứ bảy vào năm 2023 với 3,470 nghìn tỷ đô la GDP. Anh đứng thứ 22 trong GDP bình quân đầu người lên tới 44.177 USD. Vương quốc Anh được hỗ trợ chủ yếu bởi lĩnh vực dịch vụ, nơi bổ sung hơn 75% GDP từ sản xuất, lĩnh vực nổi bật thứ hai sau nông nghiệp.

Anh với GDP danh nghĩa là 2.829 nghìn tỷ đô la, giữ vị trí thứ sáu về GDP

Đến năm 2020 với GDP danh nghĩa là 3,2 nghìn tỷ USD, Vương quốc Anh sẽ vẫn nằm trong top 5 quốc gia mạnh nhất theo GDP.

GDP danh nghĩa: 2,761 nghìn tỷ đô la

GDP (PPP): 3,054 nghìn tỷ đô la

Nền kinh tế Pháp chiếm khoảng một phần năm tổng sản phẩm quốc nội (GDP EU) của liên minh Châu Âu. Dịch vụ là đóng góp chính cho nền kinh tế của đất nước, với ngành công nghiệp này chiếm hơn 70% GDP. Pháp là một trong những nhà sản xuất hàng đầu thế giới trong các ngành công nghiệp ô tô, hàng không và đường sắt, và mỹ phẩm và hàng xa xỉ.

Nền kinh tế Pháp chiếm khoảng một phần năm tổng sản phẩm quốc nội (GDP EU) của liên minh Châu Âu

Nền kinh tế Pháp đã duy trì các cuộc khủng hoảng tài chính tương đối tốt so với các nước khác. Được bảo vệ một phần bởi sự phụ thuộc thấp vào thương mại bên ngoài và mức tiêu thụ tư nhân ổn định, GDP của Pháp chỉ giảm trong năm 2009. Tuy nhiên, sự phục hồi đã khá chậm và mức thất nghiệp cao và tiếp tục là một vấn đề gia tăng đối với các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là trong giới trẻ trong nền kinh tế mạnh thứ bảy này.

Trong vài năm qua, nền kinh tế Ý đã mạnh lên nhưng vẫn bị gánh nặng bởi các vấn đề lãnh đạo lâu dài khác nhau

GDP danh nghĩa: 2,072 nghìn tỷ đô la

GDP (PPP): 2,394 nghìn tỷ đô la

Bất chấp việc Ý bị bất ổn chính trị, kinh tế trì trệ và không có những thay đổi quan trọng cản trở. Ngành công nghiệp đã báo cáo các cơn co thắt 2,4% và 1,8% trong năm 2012 và 2013, nhưng trong vài năm qua, nền kinh tế đã mạnh lên. Đất nước này đang cố gắng xây dựng mối quan hệ tài chính tốt hơn với các quốc gia nhỏ láng giềng như Bosnia và Herzegovina, Pháp và các nền kinh tế châu Âu khác.

Ý vẫn bị gánh nặng bởi các vấn đề lãnh đạo lâu dài khác nhau, bao gồm một thị trường lao động cứng nhắc, năng suất trì trệ, thuế suất cao, mặc dù giảm số lượng các khoản nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng; và nợ chính phủ cao. Những điểm yếu này hạn chế sự tăng trưởng tài chính của đất nước, duy trì quan điểm phát triển dưới mức của các đối tác ở châu Âu. Mức thất nghiệp vẫn ở mức hai con số, trong khi thâm hụt chính phủ vẫn ở mức khoảng 132% GDP. Trên khía cạnh tích cực, tăng trưởng tài chính được thúc đẩy bởi xuất khẩu và tăng trưởng trong đầu tư.

GDP danh nghĩa: 1,847 nghìn tỷ đô la

GDP (PPP): 3,456 nghìn tỷ đô la

Brazil là quốc gia đông dân nhất và lớn nhất ở Nam Mỹ. Brazil là một trong những nền kinh tế lớn thứ chín thế giới năm 2019, phục hồi từ nền kinh tế tập trung chủ nghĩa xã hội với GDP danh nghĩa là 1,868 nghìn tỷ đô la vào năm 2018. Quốc gia này nổi tiếng với các ngành dệt, giày, xi măng, gỗ, quặng sắt và thiếc. Điều này dẫn đến một ngành công nghiệp nông nghiệp tương đối mạnh mẽ, chiếm khoảng 6% tổng GDP. Tuy nhiên, các ngành dịch vụ (72,8%) và sản xuất công nghiệp (21%) vẫn chiếm phần lớn GDP của đất nước, như trong hầu hết các ngành công nghiệp hiện đại.

Brazil là quốc gia đông dân nhất và lớn nhất ở Nam Mỹ.

Brazil tiếp tục hồi phục sau cuộc suy thoái mạnh năm 2015 và 2016. Trước cuộc khủng hoảng, Brazil tiết lộ các sản phẩm tài chính ở các quốc gia sẽ lớn hơn đáng kể trong năm 2013 và 2014 ở mức gần 2,5 nghìn tỷ USD. IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) gần đây đã giảm dự báo Brazil xuống dưới 1% vì sự suy yếu niềm tin vào sự ổn định chính trị và sự không chắc chắn về tỷ giá hối đoái. IMF cho biết, bản sửa đổi giảm đáng kể cho năm 2019 phản ánh sự xuống cấp của Brazil, nơi tâm lý đã suy yếu đáng kể vì sự không chắc chắn vẫn còn về sự chấp thuận lương hưu và các cải cách cơ cấu khác, theo IMF.

GDP danh nghĩa: 1,82 nghìn tỷ đô la

Nền kinh tế lớn thứ mười thế giới đang đứng trước Nga. Canada báo cáo sự phát triển tài chính mạnh mẽ từ năm 1999 đến 2008, với GDP hàng năm tăng trung bình gấp 2,9%. Do mối quan hệ tài chính chặt chẽ với Hoa Kỳ, Canada có thể phục hồi nhanh chóng từ ảnh hưởng của suy thoái kinh tế năm 2009. Ngoài ra, tín dụng cho chính sách tài khóa mạnh mẽ trước khủng hoảng, một hệ thống tài chính mạnh mẽ.

Canada báo cáo sự phát triển tài chính mạnh mẽ từ năm 1999 đến 2008

Canada thuộc khu vực chính trị tương đối ổn định và sức mạnh kinh tế của các khu vực phía tây giàu tài nguyên. Tăng trưởng đã bắt đầu trở lại kể từ năm 2010 và trung bình, nền kinh tế của Canada đã tăng khoảng 1,4% mỗi năm từ năm 2010 đến 2013. GDP danh nghĩa của Canada đứng ở mức 1,8 nghìn tỷ USD với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 2,0% vào năm 2019 và dự kiến sẽ đạt 2,43 nghìn tỷ USD vào năm 2023. Về lâu dài, theo các mô hình kinh tế lượng, người ta kỳ vọng rằng GDP của Canada sẽ dao động quanh mức 2160 nghìn tỷ USD vào năm 2020.

Kinh tế Nga lần đầu tăng trưởng sau một năm

Theo dữ liệu của Cục Thống kê Liên bang Nga (Rosstat) công bố ngày 11/8, GDP của Nga trong quý II vừa qua đã tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn mức dự báo tăng 3,9%.

Hãng Interfax đã lấy dữ liệu từ Bộ Kinh tế Nga cho thấy động lực tăng trưởng chính là các lĩnh vực của nền kinh tế thực, mà chủ yếu là ngành sản xuất chế biến với sản lượng quý II năm nay tăng 11,3%.

Các tổ hợp chế tạo máy và luyện kim góp phần cải thiện các chỉ số với mức tăng 2,3% trong tổng mức tăng trưởng được dự báo của năm nay là 6,8%. Ngành xây dựng và nông nghiệp duy trì mức tăng trưởng ổn định khi thương mại bán buôn đang phục hồi với tốc độ cao trong năm qua (tăng 12,5%).

Theo các chuyên gia của tờ Kommersant, sự phục hồi của nhu cầu tiêu dùng có tác động tích cực đến động lực của GDP trong bối cảnh tình hình ổn định trên thị trường lao động và tăng trưởng thu nhập bằng tiền thực tế của người dân.

Người dân mua hàng tại một siêu thị ở Nga. (Ảnh: Saint-Petersburg.com)

Chính sách của Moskva hỗ trợ đồng Ruble

Đồng Ruble trong phiên giao dịch hôm qua (14/8) đã rơi xuống mức thấp nhất 17 tháng. Có thời điểm ở mức 101,04 Ruble đổi 1 USD. Như vậy, kể từ đầu năm đến nay, đồng Ruble đã sụt giảm tới 30% giá trị. Hồi tháng 3 năm ngoái, tỷ giá đồng Ruble từng ở mức thấp kỷ lục là 120 Ruble đổi 1 USD, sau khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra.

Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nga cho rằng, đồng Ruble giảm giá phần lớn là do tình trạng ngoại thương xấu đi. Vậy Moskva đang có bước đi hay chính sách nào để hỗ trợ đồng Ruble?

Vào cuối tháng 7, Ngân hàng Trung ương Nga đã tăng lãi suất cơ bản thêm 100 điểm, từ 7,5% lên 8,5%. Quyết định được đưa ra trong bối cảnh áp lực lạm phát gia tăng do khả năng tăng sản lượng không theo kịp tốc độ tăng nhu cầu trong nước và sự mất giá của đồng Ruble.

Tờ Gazeta ngày 9/8 cho biết, Ngân hàng Trung ương Nga tuyên bố tạm dừng mua ngoại tệ trong thời gian còn lại của năm nhưng sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch của quỹ phúc lợi quốc gia để bán ngoại tệ với 2,3 tỷ Ruble mỗi ngày. Điều này được xem là có thể giảm bớt sự biến động của đồng Rúp trong thời gian ngắn nhưng không có khả năng tăng mạnh đồng Ruble.

Một số nhà phân tích phương Tây cho rằng, các cơ quan tài chính Nga đang cố tình để đồng Ruble suy yếu để cải thiện nguồn thu ngân sách.

Trong khi đó, các chuyên gia kinh tế Nga của tờ Vedomosti cũng nhận định, đồng Ruble yếu sẽ giúp chính phủ đạt được mức thu ngân sách như kế hoạch, có tính đến việc doanh thu xuất khẩu giảm. Ước tính, để đáp ứng các thông số đã đặt ra, chính quyền cần tỷ giá hối đoái đô la ít nhất là 90 Ruble và nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, thì sẽ là 100 Ruble.

Theo tờ Tin tức Izvestia, Ngân hàng Trung ương Nga đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Nga lên mức 1,5 - 2,5% cho năm 2023, nhưng cũng cảnh báo đến rủi ro lạm phát bởi điều kiện của thị trường, các biện pháp trừng phạt và mức chi tiêu của chính phủ. Dữ liệu chính thức được công bố ngày 9/8 cho thấy trong tháng 7, tốc độ tăng lạm phát hàng năm của Nga là 4,3%.

Xuất khẩu dầu của Nga vượt mức trần giá của G7

Hãng thông tấn Tass của Nga dần lời của ông Maxim Oreshkin - cố vấn kinh tế cho Tổng thống Putin - cho rằng, rất có thể Moskva ga sẽ có động thái can thiệp chính sách tiền tệ trước cuộc họp lãi suất vào ngày 15/9 tới. Đồng Ruble yếu sẽ làm phức tạp quá trình chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế và ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập thực tế của người dân.

Tuy nhiên, ở thời điểm này, việc 1 đồng Ruble yếu cũng đang hỗ trợ rất lớn cho xuất khẩu. Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), dầu của Nga đã được bán trên mức giá trần 60 USD/thùng mà nhóm G7 đưa ra trong suốt tháng 7, giúp Nga đạt doanh thu từ dầu mỏ cao nhất trong 8 tháng. Đây được xem là một đòn giáng mạnh vào nỗ lực áp đặt các biện pháp trừng phạt của phương Tây. Tuy nhiên, việc đảm bảo nguồn thu ngân sách Nga từ dầu khí còn phụ thuộc cả vào yếu tố khác.

Giá dầu thô toàn cầu đã tăng cao hơn trong tháng 7 và tháng 8 khi được thúc đẩy bởi việc cắt giảm sản lượng của Saudi Arabia. IEA cho biết, điều đó đã đẩy giá dầu của các chuyến hàng dầu thô vận chuyển bằng đường biển của Nga lên mức trung bình là 64,41 USD/thùng, cao hơn mức trần 60 USD/thùng mà G7 đã nhất trí.

Cũng trong tháng 7 nước này xuất khẩu trung bình khoảng 7,3 triệu thùng dầu/ngày. Trung Quốc và Ấn Độ vẫn mua tới 80% lượng dầu xuất của Nga. Các nhà phân tích cũng lưu ý rằng giá dầu thô cao hơn, kết hợp với việc thu hẹp chiết khấu đối với các loại dầu của Nga đã thúc đẩy doanh thu xuất khẩu của Nga đạt 15,3 tỷ USD trong tháng 7, tăng 20% so với tháng trước đó.

(Ảnh minh họa - Ảnh: Getty Images)

Để đối phó với các lệnh trừng phạt của phương Tây, Nga tiếp tục quyết định giảm sản lượng khoảng 500.000 thùng/ngày trong tháng 8 và 300.000 thùng/ngày trong tháng 9 tới. Song không phải cứ cắt giảm khiến cung thấp hơn cầu, khách hàng sẽ chịu mua giác cao hơn.

Khoảng 40% dầu xuất khẩu của Nga là tới Ấn Độ, duy trì mức này liên tục trong 10 tháng qua . Tuy nhiên, khối lượng nhập khẩu này dự báo sẽ giảm dần từ nay đến cuối năm, trung bình khoảng 2 triệu thùng/ngày do tác động theo mùa khi nhu cầu thường giảm.

Đối với Trung Quốc, họ cũng đang cân nhắc giữa dầu của Iran và Nga. Giá dầu Iran hiện ở mức thấp hơn gần 10 USD/thùng so với giá dầu Brent giao sau. Con số này lớn hơn nhiều so với mức giảm chỉ khoảng 4 - 5 USD/thùng trước khi xung đột Ukraine nổ ra.

Có thể thấy, bất chấp hơn 10.000 lệnh trừng phạt, Nga đã không rơi vào thảm họa kinh tế như Phương Tây dự tính mà còn đang phục hồi và tăng trưởng. Nhưng Tổng thống Vladimir Putin vẫn lưu ý rằng các biện pháp trừng phạt có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Nga trong trung hạn.

Trong tất cả các kịch bản cho sự phát triển của nền kinh tế Nga, các chuyên gia đều dự tính đến áp lực trừng phạt trong 10 - 15 năm tới. Do đó, chuyển đổi cơ cấu kinh tế Nga, định hướng lại dòng chảy xuất khẩu, thiết lập lại chuỗi cung ứng sẽ là quá trình không thể tránh khỏi và cần tiếp tục trong thời gian tới để không phụ thuộc vào bất cứ nguồn thu xuất khẩu nào.

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo!

(TTXVN) Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ngày 15/3 cho biết GDP danh nghĩa của Hàn Quốc năm 2020 ước đạt 1.624 tỷ USD, đứng thứ 10 thế giới, vượt Nga đứng thứ 11.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ngày 15/3 cho biết GDP danh nghĩa của Hàn Quốc năm 2020 ước đạt 1.624 tỷ USD, đứng thứ 10 thế giới, vượt Nga đứng thứ 11 (1.403 tỷ USD) và Brazil đứng thứ 12 (1.394 tỷ USD), Australia thứ 13 (1.333 tỷ USD).

Thứ hạng năm 2020 của Hàn Quốc cao hơn 2 bậc so với thứ hạng năm 2019 (thứ 12). Như vậy, Hàn Quốc đã quay trở lại vị trí thứ 10 sau 2 năm, kể từ năm 2018. GDP danh nghĩa là chỉ số cho thấy lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất tại một quốc gia, được tính theo giá thị trường (trong năm tính toán). Nếu như GDP thực tế cho thấy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì GDP danh nghĩa lại thể hiện quy mô nền kinh tế một quốc gia. Kết quả này cho thấy nền kinh tế Hàn Quốc vẫn có những điểm sáng bất chấp cú sốc COVID-19 trong năm 2020.

Năm 2020, kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng cao thứ ba trong Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới  (G20), sau Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, kết quả khả quan nhất trong số các nước phát triển nhóm G20.

Trong khi đó, các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ tăng trưởng -3,5%, Nhật Bản giảm 4,8%, Đức giảm 5,3%. OECD đánh giá công tác phòng dịch hiệu quả, nỗ lực về chính sách đã giúp Hàn Quốc giảm thiểu được cú sốc từ đại dịch.

Cơ quan chủ quản: Hiệp hội các Trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Giấy phép số 74/GP-BTTTT ngày 26/02/2020.

Giấy phép sửa đổi, bổ sung số 50/GP-BTTTT ngày 05/03/2024.

Phó Chủ tịch Hiệp hội, Tổng Biên tập: Nguyễn Tiến Bình.

Tầng 3 Khu A, Phòng 3,4 số 141 Lê Duẩn, P.Cửa Nam, Q.Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội

Đường dây nóng: 0938.766.888 - 0243.5569666

Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu trong năm 2023 đạt 23,8 nghìn tỷ USD, giảm 5% so với năm trước đó. Khoảng 20 trong số 30 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới ghi nhận sự sụt giảm giá trị xuất khẩu.

Số lượng các hạn chế thương mại toàn cầu tăng gần gấp 5 lần kể từ năm 2015, đạt gần 3.000 biện pháp hạn chế trong năm qua.

Với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 354 tỷ USD, chiếm 1,5% toàn cầu, Việt Nam xếp vị trí thứ 23 trong tổng số 30 nền kinh tế xuất khẩu lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2023 giảm 4,6% (giảm khoảng 17,04 tỷ USD) so với năm trước.

Trong đó, giảm mạnh nhất là các nhóm hàng như nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện giảm 5,61 tỷ USD; hàng dệt may giảm 4,27 tỷ USD; giày dép các loại giảm 3,66 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng giảm 2,62 tỷ USD; gỗ và sản phẩm từ gỗ giảm 2,54 tỷ USD; hàng thủy sản giảm 1,95 tỷ USD; hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 750 triệu USD…

Bên cạnh đó, xuất khẩu một số nhóm hàng trong năm 2023 vẫn đạt mức tăng cao so với năm trước. Cụ thể, hàng rau quả tăng 2,24 tỷ USD; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 2,17 tỷ USD; gạo tăng 1,22 tỷ USD; hạt điều tăng 558 triệu USD.

Bất chấp sự gia tăng chủ nghĩa bảo hộ và các rào cản thương mại toàn cầu, Trung Quốc tiếp tục khẳng định vị thế là quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới với kim ngạch 3,4 nghìn tỷ USD trong năm ngoái, cao hơn gần 1,4 nghìn tỷ USD so với Mỹ.

Lần gần đây nhất Mỹ là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới là vào năm 1979. Nhưng từ đó đến nay, nước này chứng kiến thâm hụt thương mại ngày càng lớn.

Dù vậy, xuất khẩu năng lượng - mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Mỹ - đã chuyển từ thâm hụt sang thặng dư trong thập kỷ qua. Năm 2023, thặng dư thương mại ròng của mặt hàng năng lượng Mỹ là 65 tỷ USD.

Sản lượng năng lượng nội địa tăng đáng kể đã giúp nền kinh tế lớn nhất thế giới tránh được các cú sốc giá dầu như cú sốc xảy ra do chiến tranh Nga-Ukraine.

Đức là nền kinh tế xuất khẩu lớn thứ ba thế giới, với kim ngạch năm 2023 tăng 1% so với năm trước dù tăng trưởng kinh tế âm. Nền kinh tế phụ thuộc lớn vào công nghiệp này chịu tác động nặng nề khi giá dầu tăng. Nhiều doanh nghiệp thậm chí phải dừng sản xuất.

Năm 2023, Đức xuất khẩu 160 tỷ USD hàng hóa sang Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước này. Tuy nhiên, con số này có thể giảm tới 15% nếu các đề xuất tăng thuế quan của ông Trump có hiệu lực.

Trong đó, ngành ô tô và dược phẩm sẽ bị tác động lớn nhất, với kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ được dự báo sẽ lần lượt giảm 32% và 35%.

Danh sách các quốc gia xuất khẩu nhiều nhất không chỉ phản ánh sự phân bổ sức mạnh thương mại toàn cầu mà còn cho thấy những thách thức do biến động địa chính trị và chính sách thương mại.

Trong khi Trung Quốc và Mỹ vẫn là những người chơi lớn, các quốc gia khác như Đức đang phải đối mặt với áp lực cạnh tranh và biến động kinh tế. Sự thay đổi trong dòng chảy thương mại toàn cầu đòi hỏi các quốc gia phải thích nghi và tìm kiếm các cơ hội mới để duy trì lợi thế cạnh tranh.

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, dự báo quy mô GDP(PPP) Việt Nam năm 2029 là 2.343 tỷ USD, vượt qua Úc và Ba Lan, xếp thứ 20 trên thế giới.

Thông qua dữ liệu mới nhất của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, trong năm 2023, Việt Nam xếp thứ 3 Đông Nam Á với quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 1.438 tỷ USD.  Indonesia là quốc gia có quy mô GDP(PPP) lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, đạt khoảng 4.391 tỷ USD. Xếp thứ hai là Thái Lan với quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 1.563 tỷ USD.

Theo sau đó là Philippines với vị trị thứ 4, quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 1.280 tỷ USD. Malaysia xếp thứ 5 với quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 1.221 tỷ USD. GDP(PPP) Singapore đạt khoảng 759,52 tỷ USD, xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á.

Myanmar, Campuchia, Lào, Brunei và Đông Timor lần lượt xếp thứ 7, 8, 9, 10, 11 với quy mô GDP(PPP) đạt 272,8 tỷ USD; 131,12 tỷ USD; 74 tỷ USD; 32,66 tỷ USD; 5,4 tỷ USD vào năm 2023.

Năm 2024, Việt Nam được IMF dự báo quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 1.559 tỷ USD, xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó, Indonesia vẫn được dự báo xếp thứ nhất với quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 4.720 tỷ USD. Thái Lan vẫn duy trì vị trí thứ 2 với quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 1.644 tỷ USD.

Đến năm 2026, quy mô GDP(PPP) Việt Nam được IMF dự báo đạt khoảng 1.833 tỷ USD, vượt qua Thái Lan và xếp thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó, Indonesia vẫn được dự báo xếp thứ nhất với quy mô GDP(PPP) đạt khoảng 5.402 tỷ USD.

Ở quy mô toàn cầu, năm 2023, Việt Nam xếp thứ 25 trên thế giới về mức quy mô GDP(PPP), vượt qua một số nền kinh tế như Hà Lan, Thụy Sỹ. Trong đó, GDP(PPP) Hà Lan đạt khoảng 1.290 tỷ USD, xếp thứ 27 trên thế giới; GDP(PPP) Thụy Sỹ đạt khoảng 787 tỷ USD, xếp thứ 35 trên thế giới vào năm 2023.

IMF dự báo quy mô GDP(PPP) Việt Nam năm 2029 đạt mức 2.343 tỷ USD, vượt qua Úc và Ba Lan, xếp thứ 20 trên thế giới. Trong khi đó, GDP(PPP) Úc đạt khoảng 2.188 tỷ USD, xếp thứ 24 trên thế giới; GDP(PPP) Ba Lan đạt khoảng 2.306 tỷ USD, xếp thứ 21 trên thế giới.

Theo CNN, kế hoạch thuế của Tổng thống Trump vẫn chưa được công bố chi tiết và có thể chẳng bao giờ thành hiện thực song chắc chắn, nó rất gây chú ý. Nếu áp dụng mức thuế doanh nghiệp 15%, Mỹ sẽ là nước lớn có thuế suất thấp nhất thế giới.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thuế suất doanh nghiệp 35% hiện thời ở Mỹ là cao nhất trong tổng số 35 quốc gia là thành viên OECD. Mức thuế doanh nghiệp tăng lên 39% nếu tính cả thuế cấp tiểu bang. Trong số những nước thuộc nhóm các thị trường phát triển và đang phát triển lớn nhất thế giới G20, Mỹ cũng là nơi mà doanh nghiệp phải đối mặt với mức thuế cao nhất.

Trong báo cáo được công bố hồi tháng 3, Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ trích dẫn số liệu từ năm 2012 cho thấy thuế suất ở ngưỡng cao nhất tại Mexico và Canada lần lượt là 30% và 26%. Dù vậy, đa số công ty Mỹ không phải trả bất kỳ khoản thuế nào nhờ hai lý do chính: họ có thể tận dụng một loạt khoản giảm thuế, hoặc giữ lợi nhuận ở nước ngoài vì khoản tiền này không bị đánh thuế cho đến khi được mang về Mỹ.

Thực tế, thuế suất doanh nghiệp Mỹ chỉ dưới 19%, tương ứng với mức thuế ở Anh và cao hơn một chút so với mức thuế ở Nhật Bản, Argentina. Con số này vẫn cao hơn hầu hết các nước thuộc nhóm G20, trong đó có nhiều đối tác thương mại lớn của Mỹ như Trung Quốc, nước đánh thuế doanh nghiệp 10%.

Tổng thống Mỹ kỳ vọng rằng đợt hạ thuế cực lớn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp giới doanh nghiệp Mỹ cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ông cũng muốn áp thuế thấp và một lần đối với 2.600 tỉ USD lợi nhuận mà các công ty chẳng bao giờ đem về Mỹ. Điều này sẽ khuyến khích nhiều doanh nghiệp đa quốc gia Mỹ đưa một phần tiền mặt về quê hương.

Rất ít thành viên OECD có mức thuế doanh nghiệp chung là 15% hoặc ít hơn. Nếu có, đây cũng là những nước nhỏ hơn, chẳng hạn như Latvia, Ireland và Hungary. Ireland đặt mức thuế 12,5% để thu hút doanh nghiệp ngoại và chiến lược này đem lại kết quả tốt trong nhiều năm qua. Các hãng Apple, Google, Facebook, eBay, Twitter đều đặt văn phòng châu Âu ở Ireland.

Dù vậy gần đây, quốc gia châu Âu bị Liên minh châu Âu (EU) chú ý vì thỏa thuận cho phép Apple trốn thuế gần 14 tỉ USD. Nước này cũng bị Oxfam xếp hạng 6 trong danh sách các thiên đường thuế hàng đầu hành tinh. Hồi tháng 12.2016, Oxfam từng cảnh báo về việc chính phủ các nước trên thế giới đang “chạy đua về điểm đáy” khi nhắc đến thuế doanh nghiệp. Điều này khiến “các nước mất hàng tỉ USD cần thiết để giải quyết tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng”. Theo Oxfam, dân thường là người phải chịu gánh nặng của việc giảm thuế doanh nghiệp vì thuế cá nhân có thể bị kéo cao còn nhiều dịch vụ như y tế, giáo dục thì giảm đi.

Tuy nhiên, năm 2023, do chịu ảnh hưởng mạnh sau đại dịch Covid-19, xuất nhập khẩu đã giảm mạnh so với năm 2022 – năm kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục với 730,28 tỷ USD. Năm 2024, tình hình xuất nhập khẩu lấy lại đà tăng trưởng, tiếp tục khởi sắc và được dự báo có thể tiếp tục đạt kỷ lục ở mức 780 – 800 tỷ USD.

Đặt trong bối cảnh những năm đầu đổi mới, thành tích này lại càng đáng ghi nhận, thể hiện sự nhất quán trong các chính sách, cũng như sự nỗ lực của doanh nghiệp.

Theo TS. Lê Quốc Phương, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công Thương, với thành tích này, hiện nay, Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc về xuất nhập khẩu trên thế giới. Đây là nỗ lực vô cùng lớn, đồng thời cũng là thành tích lớn của Việt Nam.

Việt Nam đã trải qua những năm đầu đổi mới với những khó khăn lớn của hoạt động xuất nhập khẩu khi phải nhập khẩu rất nhiều mặt hàng, kể cả gạo. Song, ngay những ngày tháng khó khăn đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) xác định, xuất khẩu hàng hóa là 1 trong 3 mặt trận của nền kinh tế thời kỳ đổi mới (bên cạnh sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng). Hội nghị giữa nhiệm kỳ (Khóa VII) của Đảng xác định, chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là “Kiên trì hướng về xuất khẩu là hướng chính, đồng thời thay thế nhập khẩu một số sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.

Nhờ những quyết sách mạnh mẽ và đúng đắn, trong giai đoạn đầu, từ năm 1991 đến 2010, tăng trưởng xuất khẩu hằng năm của Việt Nam luôn đạt tốc độ cao, ở mức 2 con số, thậm chí có những năm lên đến trên 15%. Giai đoạn từ năm 2011 đến 2022, tốc độ tăng của tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đạt trung bình 12,6%/năm.

Nếu năm 1991, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ đạt 2,087 tỷ USD (nhập khẩu đạt 2,338 tỷ USD), thì đến năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 162,016 tỷ USD (nhập khẩu đạt 165,775 tỷ USD), tăng gấp 77,63 lần.

Đến năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp 2,29 lần năm 2015 và 177,9 lần năm 1991.

Từ kết quả ấn tượng đó, soi chiếu vào hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước, có thể thấy, điểm sáng đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao trong suốt hơn 3 thập kỷ, ngay cả thời gian đại dịch Covid-19 (2019 - 2021). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tính trong cả thời kỳ từ năm 1992 đến 2022 (31 năm) đạt trung bình 17,96%/năm. Việt Nam trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hàng đầu thế giới hơn 30 năm qua.

Bên cạnh đó, từ năm 2016 đến 2022, nền kinh tế Việt Nam đã có 7 năm xuất siêu liên tục. Năm 2023, Việt Nam tiếp tục duy trì thành tích xuất siêu. Đối với một nước đang phát triển (nhu cầu nhập khẩu lớn, năng lực cạnh tranh sản phẩm chế biến ở thị trường quốc tế còn hạn chế), thì đạt được kim ngạch ngoại thương xuất siêu, là thành tích đáng ghi nhận, phản ánh nỗ lực và bước phát triển về chất của nền kinh tế.

Hiện, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt tại gần 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó có các thị trường lớn và khó tính, như Mỹ, Nhật Bản và EU.

Đặc biệt, hiện nay, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch căn bản, từ thâm dụng sản phẩm nguyên liệu, hàng sơ chế, sang các sản phẩm chế biến, chế tạo. Đối với hàng nông sản, sản lượng xuất khẩu các sản phẩm giá trị cao cũng ngày càng tăng lên.

Đơn cử, với mặt hàng gạo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, 5 năm trở lại đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp với các tỉnh, thành và nông dân, DN đã thay đổi hoàn toàn cơ cấu về nâng chất lượng gạo lên. Nhờ đó, gạo Việt Nam giá cao nhưng các quốc gia vẫn chấp nhận.

Thêm vào đó, chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được cải thiện, đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường khó tính như EU, Mỹ, và Nhật Bản, mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu hơn. Dự báo, từ nay đến hết năm, khả năng các doanh nghiệp tiếp tục xuất khẩu với khối lượng tăng và giá trị tốt hơn.

Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 đang đề ra những mục tiêu về xuất khẩu xanh, xuất khẩu bền vững. Đây được coi là xu thế không thể đảo ngược của thế giới.

TS. Lê Quốc Phương nhấn mạnh, nhiều mặt hàng của Việt Nam đứng Top đầu xuất khẩu như: Gạo, hạt tiêu, dệt may… tức là đã có thể xếp Việt Nam vào một trong những cường quốc về xuất khẩu. Cho nên cần phải có sự ứng xử xứng với vị trí cường quốc. Đó là không thể chậm trễ trong việc đưa sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu đáp ứng được các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của thị trường.

Do đó, đầu tiên, doanh nghiệp phải tìm hiểu thông tin về sản xuất xanh chuyển đổi xanh, xuất khẩu bền vững như thế nào. Nó đã thể hiện trong các quy định mới các nước đưa ra và ta phải đáp ứng, phải tìm hiểu kỹ.

Sau khi tìm hiểu kỹ thông tin về sản xuất xanh, chuyển đổi xanh là gì, doanh nghiệp phải rà soát trong quy trình sản xuất, kinh doanh xem có những gì chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn xanh? Khâu nào cần chuyển đổi, những bước chuyển đổi như thế nào?

Tiếp theo đó, doanh nghiệp phải đầu tư cho chuyển đổi xanh. Việc đầu tư này rất tốn kém song doanh nghiệp đã tham gia cuộc chơi thì phải chấp nhận.

Doanh nghiệp cũng phải tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài, từ tư vấn, hướng dẫn, kết nối, cung cấp tín dụng tài chính… Nguồn hỗ trợ có thể đến từ các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế ở Việt Nam, các quốc gia tiên tiến như EU… Phải tìm kiếm và tận dụng những hỗ trợ này.

Cuối cùng, doanh nghiệp cần phải xem việc chuyển đổi xanh không chỉ là thách thức và khó khăn mà nó là cơ hội lớn để doanh nghiệp đầu tư, chuyển đổi hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư quy trình sản xuất, thay đổi thiết bị, nguyên liệu đầu vào. Sự thay đổi sẽ kích thích đổi mới sáng tạo và về lâu dài thúc đẩy chuyển đổi tốt hơn.

Về phía Bộ Công Thương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Nguyễn Cẩm Trang chia sẻ, Bộ Công Thương sẽ tập trung vào các vấn đề chủ yếu liên quan đến công tác phát triển thị trường, cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp. Trong đó, Bộ đã chỉ đạo mạng lưới thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc quảng bá nỗ lực của doanh nghiệp Việt trong việc thích ứng, đáp ứng được các tiêu chuẩn xanh của các nước.

Các nội dung hướng dẫn, thông tin liên quan đến quy định của nước ngoài, các sổ tay cũng sẽ được triển khai thực hiện để đưa đến cho hiệp hội, doanh nghiệp các thông tin kịp thời, nhanh nhất để doanh nghiệp có thể chủ động kế hoạch sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của thị trường./.

Dưới đây là danh sách các công ty vận tải biển hàng đầu và lớn nhất trên thế giới, được cập nhật cho năm 2023: Đây là một danh sách tổng quan dựa trên vị trí và quy mô của các công ty vận tải biển hàng đầu tính theo sức chứa (TEU) và quy mô hoạt động trên toàn cầu. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng thứ hạng này có thể thay đổi theo thời gian và tình hình của ngành công nghiệp vận tải biển.

– Mediterranean Shipping Company (MSC) – Thụy Sĩ Năm 2023, Công ty Vận tải đường biển Địa Trung Hải (MSC) đã trở thành một trong những hãng tàu lớn nhất trên toàn cầu. MSC được thành lập vào năm 1970 và là một công ty vận tải quốc tế có trụ sở tại Thụy Sĩ. Chiến lược của họ là mua lại nhiều tàu cũ, điều này đã giúp họ bổ sung gần 100 tàu vào đội tàu của mình chỉ trong một năm gần đây. Với tổng số hơn 645 tàu và sức tải khoảng 4.287.473 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu), MSC đã vượt qua Maersk để trở thành hãng tàu có tổng công suất lớn nhất trên thế giới tính theo TEU vào năm 2022.

Mediterranean Shipping Company (MSC) – Thụy Sĩ- ảnh từ internet

Trong ngành vận tải hàng biển, hãng tàu đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vận chuyển quốc tế, bao gồm số lượng hàng, khối lượng và thời gian vận chuyển, với mức giá cước cực kỳ cạnh tranh. Các hãng vận tải nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của mình trong việc xác định chiến lược phát triển, và nhờ đó, các thương hiệu của họ đã trở thành những hãng tàu hàng đầu trên toàn cầu. -Maersk Line – Đan Mạch

AP Moller – Maersk, hãng tàu hàng đầu thế giới, đã trụ vững trên thị trường vận tải biển trong hơn 25 năm. Được thành lập từ năm 1904 và có trụ sở tại Đan Mạch, Maersk Line là công ty con của tập đoàn AP Moller. Hiện nay, hãng tàu kết hợp này sở hữu hơn 738 tàu container, với khả năng chở được khoảng 4.275.542 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu, tương đương với kích thước 20 feet).

Maersk không chỉ hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển mà còn hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, chủ yếu là cung cấp dịch vụ vận tải biển, khai thác và thăm dò dầu khí ngoài khơi, và bán lẻ hàng tiêu dùng.

Maersk Line – Đan Mạch- ảnh tử internet

Ngoài ra, Maersk sở hữu flotte tàu container lớn nhất trên thế giới và có sự hiện diện tại 130 quốc gia với hơn 110.000 nhân viên trên toàn cầu.

Với quy mô và phạm vi hoạt động rộng lớn, Maersk là một công ty vận tải hàng biển có thể phục vụ khách hàng đến bất kỳ điểm đến nào trên thế giới. Họ chuyên vận chuyển hàng hóa đến các quốc gia thuộc Châu Mỹ như Mỹ, Argentina, Ecuador, Bahamas, và nhiều quốc gia khác trên khắp thế giới. –CMA-CGM-PHÁP

CMA-CGM là một trong những công ty vận tải hàng biển hàng đầu của Pháp, được thành lập vào năm 1978 trong bối cảnh các sáp nhập của các tập đoàn tàu biển đã xảy ra trước đó. Vào năm 2022, CMA-CGM đã leo lên vị trí thứ ba trong danh sách Top 10 hãng tàu lớn nhất thế giới. Họ hiện đang điều hành một đội tàu gồm hơn 568 tàu hoạt động tại 420 cảng thuộc 150 quốc gia khác nhau, với khả năng chở được khoảng 3.198.217 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu). -COSCO Shipping – Trung Quốc

COSCO (China Ocean Shipping Company) là một trong những tập đoàn hàng biển lớn với nhiều công ty vận tải container. Hiện nay, COSCO đứng thứ tư trên thế giới về tổng trọng tải sau một hạng bậc so với năm 2021. Hãng tàu này hoạt động tại hơn 40 quốc gia với một đội tàu container gồm khoảng 480 tàu, có khả năng chở hàng khoảng 2.932.779 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu). Đáng chú ý, COSCO cũng có thêm 585.000 TEU trong đơn đặt hàng của họ, dự kiến sẽ được tăng trong năm tới.

COSCO Shipping – Trung Quốc-ảnh từ internet

COSCO cũng là một trong những đơn vị vận tải hàng rời (nông sản) lớn nhất tại Trung Quốc và trên toàn thế giới.

Hãng tàu này chuyên vận chuyển hàng hóa trên các tuyến đường đi Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, Thái Bình Dương, Đông Nam Á và Nam Á.

Hapag-Lloyd – Đức- ảnh từ internet

Hapag-Lloyd là một tập đoàn vận tải hàng biển nổi tiếng và được thành lập vào năm 1970, có trụ sở chính tại Đức. Công ty này được hình thành thông qua việc hợp nhất giữa Hamburg-America Line và công ty Lloyd của Bắc Đức. Hiện nay, Hapag-Lloyd điều hành một đội tàu gồm hơn 250 chiếc, với khả năng xử lý khoảng 1.743.983 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu) container trên toàn cầu.

–Ocean Network Express (ONE) – Nhật Bản

Ocean Network Express (ONE) – ảnh từ internet

Ocean Network Express (ONE) là một liên minh hãng tàu được thành lập vào năm 2007 thông qua việc sáp nhập của ba công ty vận tải hàng đầu: MOL, “K”-Line và NYK. Liên minh này có trụ sở chính tại Singapore và đã được thành lập tại Nhật Bản. Mục tiêu chính của ONE là cải thiện dịch vụ vận chuyển hàng hóa trong khu vực Châu Á, Châu Mỹ Latin và Châu Phi. Hiện tại, ONE sở hữu tổng cộng 209 tàu với khả năng chứa 1.531.530 TEU, đặt mình là một trong những công ty vận tải container hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, so với năm 2021, công suất TEU đã giảm 2%, chủ yếu do giảm số lượng tàu thuê.

-Evergreen Marine Corporation – Đài Loan

Evergreen Marine Corporation – Đài Loan-ảnh từ internet

Evergreen là một tập đoàn vận tải biển đến từ Đài Loan, được thành lập vào năm 1968 bởi Tiến sĩ Yung-Fa Chang. Hiện nay, tập đoàn này có văn phòng đại diện trên khắp thế giới. Evergreen điều hành một đội tàu container gồm hơn 204 tàu, với khả năng chứa tới 1.477.644 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu).

-Hyundai Merchant Marine (HMM) – Hàn Quốc

Hyundai Merchant Marine (HMM) – Hàn Quốc- ảnh từ internet

HMM (Hyundai Merchant Marine) là một trong những công ty vận tải container hàng đầu có trụ sở tại Hàn Quốc. Trước đây được gọi là Hyundai Merchant Marine, công ty này hiện đang sở hữu một đội tàu gồm 75 chiếc, với khả năng chở hàng trên 819.790 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu). HMM là một trong 10 công ty vận tải biển hàng đầu trên toàn cầu và đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu của Hàn Quốc. Là một công ty hậu cần tích hợp toàn cầu hàng đầu, HMM đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc.

-Yang Ming Marine Transport Corporation – Đài Loan

Yang Ming Marine Transport Corporation – Đài Loan- ảnh tử internet

Yang Ming Shipping Lines là một trong những công ty vận tải biển hàng đầu và lâu đời nhất trên thế giới, có trụ sở chính tại Keelung, Đài Loan. Công ty này được thành lập vào năm 1972 và hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc. Hiện tại, Yang Ming sở hữu một đội tàu gồm khoảng 90 chiếc, với khả năng chở hàng container khoảng 62.047 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu).

-ZIM Integrated Shipping Services – Israel

ZIM Integrated Shipping Services – Israel – ảnh từ internet

ZIM Integrated Shipping Services Ltd., thường được biết đến với tên gọi ZIM, là một công ty vận tải biển quốc tế có trụ sở tại Israel. Công ty được thành lập vào năm 1945 dưới tên gọi ZIM Palestine Navigation Company Ltd.

Theo thông tin cập nhật, hiện nay ZIM sở hữu một đội tàu gồm 111 chiếc, với khả năng chứa tổng cộng 419.064 TEU (đơn vị đo lường chứa tàu). Trong năm 2021, ZIM đã thêm hơn 30 tàu vào đội tàu của mình, đồng thời trở thành một trong 10 công ty vận tải container hàng đầu trên thế giới.